Trang truyền thông Phật Pháp và Đời Sống

Kho Tàng Phật Pháp

Kinh Di Giáo

PHẬT NÓI KINH DI GIÁO

GIỚI THIỆU

Kinh Phật Di Giáo còn gọi là Phật Thụy Bát niết Bàn Lược Thuyết Giáo Gới. Thụy Bát Niết Bàn, có nghĩa là: Sắp đến giờ vào Niết Bàn. Lược Thuyết Giáo Giới, có nghĩa là: Lược nói những lời dạy bảo cần thiết.

Giờ phút sắp vào Niết-bàn, Đức Phật còn để lời dăn dò cặn kẽ cho các đệ tử được ghi lại trong Kinh này, nên gọi là “KINH PHẬT DI GIÁO hay KINH THÙY BÁT NIẾT BÀN LƯỢC THUYẾT GIÁO GIỚI”. Dạnh từ tuy khác, nhưng ý nghĩa vẫn đồng. Tuy nhiên danh từ: Kinh Phật Di Giáo gọn gàng, dễ đọc, nên được phổ thông hơn.

PHẦN TỰA
Phật Thích-ca Mâu-ni lần đầu chuyển Pháp luân độ ngài A-nhã Kiều-trần-như, cho đến lần sau cùng độ Tu-bạt-đà-la, những ai nên được độ Như Lai đều đã độ. Lúc sắp vào Niết-bàn, trong đêm khuya thanh vắng, không có một tiếng động, giữa hai cây Sa-la song thọ, đức Phật vì các đệ tử nói tóm lược những điều thiết yếu trong chánh Pháp.

PHẦN CHÁNH KINH

 ĐỐI TRỊ TÀ NGHIỆP:

Này các thầy Tỳ-kheo, sau khi ta nhập diệt, các ông nên tôn trọng quý kính Ba-la-đề-mộc-xoa, là giới biệt giải thoát, như người mù tối mà gặp sáng, người nghèo được của báu. Các ông nên biết rằng, giới chính là Thầy lớn; dù ta còn ở đời, cũng không khác Pháp này vậy. Người giữ gìn tịnh giới không được làm kinh doanh hay mua sắm nhà đất, chứa tôi tớ, nô tỳ, và chăn nuôi gia súc. Phải tránh việc trồng trọt, tiền tài và châu báu như tránh xa hầm lửa. Không được chặt cây cỏ, khai khẩn cày xới đất, điều chế các loại thuốc, xem tướng bói tốt xấu, xem thiên văn, suy đoán sự thịnh suy, xem lịch chọn ngày tốt…. Những việc làm như vậy đều không nên vi phạm.
Phải biết tiết chế thân, ăn uống nên đúng thời, sống thanh tịnh đạm bạc. Không được tham dự vào các việc của thế gian, làm sứ giả liên lạc, chú thuật chế thuốc tiên, kết giao kẻ quyền quý, gần gũi mong trọng hậu, rồi ngạo mạn khinh người. Những việc thế tục này đều không nên vi phạm. 
Nên tự giữ tâm mình cho ngay thẳng, chánh niệm mong cầu giải thoát. Không được che giấu lỗi lầm hay tỏ ra lạ thường để mê hoặc người. Đối bốn việc cúng dường biết đủ biết hạn lượng; dù cho được cúng nhiều, cũng chia sẻ người khác mà không nên tích chứa.
Trên đây là sơ lược về hình thức giữ gìn tịnh giới. Giới là căn bản của sự giải thoát chánh thuận nên giới được gọi là Ba-la-đề-mộc-xoa, tức là thuận giải thoát. Do nương nơi giới này sinh được các thiền định và trí tuệ diệt khổ. Vì vậy là Tỳ-kheo phải gìn giữ tịnh giới, chớ hủy phạm thiếu khuyết. Ai trì giới thanh tịnh sẽ có được pháp lành. Nếu giới không thanh tịnh, công đức lành không sinh. Cho nên phải biết giới là trụ xứ công đức an ổn vào bậc nhất.
ĐỐI TRỊ KHỔ VỌNG VÀ KHỔ DO DỤC BUÔNG LUNG:
Khổ do căn buông lung: Này các thầy Tỳ-kheo, đã an trụ tịnh giới, phải chế ngự năm căn, đừng để năm căn này buông lung vào năm dục. Ví như người đang chăn trâu cầm roi luôn canh chừng, không để cho phóng túng phạm lúa mạ của người. Nếu buông lung năm căn, không chỉ phạm năm dục, mà còn nhiều thứ khác phóng túng vô cùng, không có hạn lượng, không thể chế ngự được. Cũng ví như ngựa dữ không dùng cương chế ngự, sẽ kéo người dẫn ngựa rơi vào trong hố sâu. Như bị giặc cướp làm hại chỉ khổ trong một đời, giặc năm căn gây họa, khổ đến trăm ngàn đời! Năm căn gây tai họa thực hết sức nghiêm trọng, các ông phải cẩn thận. Cho nên, người có trí chế ngự năm căn mình, không buông lung theo chúng. Hãy phòng hộ năm căn như luôn canh giữ giặc, không một chút buông lơi. Nếu buông lung năm căn, thì không cũng bao lâu, các căn bị diệt vong!  

Khổ do dục buông lung: Tâm làm chủ năm căn. Cho nên các ông phải khéo chế phục tâm mình. Tâm thực rất đáng sợ còn hơn là rắn độc, thú dữ hay giặc thù, hoặc lửa lớn cháy lan, cũng chưa đủ ví dụ! Như người cầm bình mật bước đi không cẩn trọng, chỉ nhìn vào bình mật mà không thấy hố sâu. Như voi điên không móc, khỉ vượn gặp rừng cây, xông chạy và leo chuyền, tâm thực khó cấm chế! Cho nên phải mau gấp chế ngự được tâm này không để cho buông lung. Nếu buông lung tâm này, sẽ đánh mất việc lành; chế ngự tâm một chỗ, không việc gì không xong! Cho nên, các Tỳ-kheo phải nên luôn tinh tấn, chiết phục tâm ý mình.
Khổ về tham câu ăn uông: Này các thầy Tỳ-kheo, khi nhận đồ ăn uống phải thọ dụng như uống thuốc, đối với món ngon dở, không khen cũng không chê, chỉ dùng để nuôi thân, nhằm dứt trừ đói khát cho cơ thể mà thôi. Như ong lấy mật hoa, chỉ lấy đi vị ngọt mà không hại sắc hương. Tỳ-kheo cũng như vậy, nhận của người cúng dường để dứt cơn đói khát, nên không được cầu nhiều, phá hư Đạo tâm người. Ví như người có trí, biết ước lượng sức trâu chịu đựng được bao nhiêu, không để kéo quá sức, khiến trâu bị kiệt lực của nó. 
Khổ về biếng nhác và ngủ nghỉ: Này các thầy Tỳ-kheo, ban ngày nên nhiếp tâm siêng tu các pháp lành, không để lỡ thời khóa. Đầu đêm và cuối đêm cũng không có phế bỏ. Giữa đêm nên tụng kinh để chấm dứt phiền não, tăng trưởng pháp lành. Đừng vì lý do ngủ để đời mình trôi qua vô ích không thành tựu. Phải nhớ lửa vô thường luôn thiêu đốt thế gian để sớm cầu tự độ, đừng có tham ngủ nghỉ. Bọn giặc phiền não rình rập còn dữ hơn oan gia thừa cơ giết chết mình, tại sao các ông lại yên lòng mà ngủ nghỉ, không biết tự cảnh giác và tỉnh thức? Con rắn độc phiền não ngủ trong tâm các ông như con rắn hổ mang đen đang nằm ngủ trong phòng! Các ông phải mau dùng móc trì giới lôi ra! Rắn ngủ đã ra khỏi mới an tâm nằm ngủ. Rắn ngủ chưa ra khỏi mà lại lo nằm ngủ, là người không hổ thẹn! Hổ thẹn là y phục đẹp nhất trang nghiêm thân. Sự hổ thẹn là móc sắt chế phục điều phi pháp của con người. Cho nên đã là Tỳ-kheo phải có tâm xấu hổ, không lúc nào tạm quên. Nếu rời tâm hổ thẹn sẽ mất các công đức. Người có tâm hổ thẹn sẽ có được pháp lành; người không có hổ thẹn không khác loài cầm thú!

ĐỐI TRỊ PHIỀN NÃO:

Đối trị giận dữ: Này các thầy Tỳ-kheo, nếu có người chặt đứt thân ông ra từng mảnh, từng đoạn, hãy nên thu nhiếp tâm, không để sân hận khởi. Cũng nên giữ cửa miệng, đừng thốt ra lời ác. Nếu buông tâm để sân hận nổi lên sẽ tự mình chướng Đạo, đánh mất vốn công đức và lợi ích. Công đức của nhẫn nhục còn lớn hơn công đức của trì giới, khổ hạnh! Người nhẫn nhục như vậy mới có thể gọi là bậc đại nhân sức mạnh. Nếu ai không thể hoan hỷ nhẫn chịu độc mắng chửi như uống nước cam lộ thì không thể gọi là người nhập đạo có trí tuệ. Vì sao lại như vậy? Vì cái hại của sân hận phá hư mọi pháp lành, làm tổn hại tiếng tốt, đời này và đời sau không ai thích gặp mặt. Nên biết tâm sân hận còn hại hơn lửa dữ, cho nên thường phòng hộ, không để sân xâm nhập. Giặc dữ cướp công đức không gì hơn sân hận. Người bạch y ở đời còn hưởng thụ dục lạc, không phải người hành đạo, không thể chế phục tâm, nên nếu họ sân hận cũng có thể cảm thông. Còn người đã xuất gia thực hành đạo giải thoát là người sống vô dục mà ôm lòng sân hận, là điều không thể được. Như trời quang mây tạnh, khí hậu lại mát mẻ mà sấm sét nổi lên, cỏ cây bị bốc cháy, là điều không thích hợp.
Đối trị kiêu mạn: Này các thầy Tỳ-kheo, hãy tự xoa lên đầu! Các ông đã dẹp bỏ cái đẹp của trang sức, đắp chiếc y hoại sắc, hai tay cầm bình bát sống bằng hạnh khất thực. Nếu thấy mình như vậy mà khởi tâm kiêu mạn nên mau chóng dứt trừ. Nuôi lớn lòng kiêu mạn là điều người bạch y ở đời không nên có, huống chi người xuất gia vào Đạo vì giải thoát, hạ mình đi xin ăn?
Đối trị dua nịnh: Này các thầy Tỳ-kheo, tâm dua nịnh trái Đạo! Cho nên phải giữ tâm luôn chân thực ngay thẳng. Nên biết tâm dua nịnh chỉ vì dối gạt người. Người đã vào trong Đạo đừng dua nịnh như vậy. Cho nên các ông phải đoan chánh tâm ý mình, lấy tâm ý ngay thẳng làm gốc của tu hành.

PHÁP YẾU RIÊNG

 1. THIỂU DỤC:
Này các thầy Tỳ-kheo, nên biết người đa dục, cầu lợi nhiều, khổ nhiều. Người thiểu dục vô cầu, vì không có dục vọng nên không có tai họa. Nếu ít muốn chỉ được bao nhiêu đó lợi ích cũng phải nên tu tập, huống chi là ít muốn còn có thể sinh ra nhiều công đức khác nữa.  Người ít muốn sẽ không dua nịnh lấy lòng người; cũng không bị các căn lôi kéo vào năm dục. Người ít muốn thanh thản không có gì sợ hãi, gặp việc đều tự tại, thường tự thấy đầy đủ. Người có tâm ít muốn tức có được Niết-bàn. Đây gọi là ít muốn.
2. TRI TÚC:
Này các thầy Tỳ-kheo, nếu muốn thoát khổ não nên quán xét biết đủ. Biết đủ là giàu vui và là chỗ an ổn. Người biết đủ tuy nằm trên đất vẫn an vui, người mà không biết đủ dù ở nơi thiên đường, cũng không thấy vừa ý. Người mà không biết đủ tuy giàu nhưng lại nghèo, người biết đủ tuy nghèo lại vô cùng giàu có. Người mà không biết đủ bị năm dục kéo lôi, người biết đủ thấy vậy, cảm thấy thực đáng thương. Đây gọi là biết đủ. 

3. XẢ BỎ:
Này các thầy Tỳ-kheo, muốn cầu vui vắng lặng phải xa lìa ồn náo, một mình tu chỗ vắng. Người biết sống một mình được Đế Thích, chư thiên đều hết lòng kính trọng. Cho nên các ông phải xa rời hội chúng mình, hay hội chúng người khác, sống một mình nơi vắng, vô sự để thiền tư, chấm dứt cội gốc khổ. Nếu thích nơi đông người sẽ gánh chịu não phiền. Ví như cây to lớn chim chóc tụ tập đông sẽ có họa khô gãy. Người bận rộn vướng mắc bởi những việc thế gian sẽ mãi mãi chìm đắm trong biển khổ sinh tử, như voi già sa lầy, không thể tự ra khỏi. Đây gọi là viễn ly. 

4. SIÊNG NĂNG:
Này các thầy Tỳ-kheo, nếu siêng năng tinh tấn không có việc gì khó; như một dòng nước nhỏ chảy mãi cũng xuyên đá. Cho nên các ông phải siêng tinh tấn tu tập. Tâm hành giả lười nhác sẽ phế bỏ công phu. Như dùi cây lấy lửa, nếu cây còn chưa nóng mà đã vội dừng tay, không sao có lửa được. Đây gọi là tinh tấn.
5. KHÔNG QUÊN CHÁNH NIÊM:
Này các thầy Tỳ-kheo, cầu bậc thiện tri thức và cầu người hỗ trợ cũng không bằng chánh niệm luôn luôn được hiện tiền. Ai không quên chánh niệm giặc phiền não không vào. Cho nên các ông phải thường nhiếp niệm nơi tâm. Ai đánh mất chánh niệm là đánh mất công đức! Nếu sức chánh niệm mạnh, tuy vào trong năm dục cũng không sợ bị hại. Như dũng sĩ mặc giáp không sợ hãi ra trận. Đây là luôn chánh niệm.
6. THIỀN ĐỊNH:
Này các thầy Tỳ-kheo, nhiếp tâm sẽ được định. Tâm định biết được tướng sinh diệt của thế gian. Cho nên các ông phải tinh tấn tu thiền định. Nếu người đã đắc định, tâm không còn phân tán. Như nhà nông quý nước khéo xây bờ đắp đê, hành giả cũng như vậy, vì giữ nước trí tuệ nên khéo tu thiền định, không để trí tuệ mất. Đây gọi là thiền định. 
7. TRÍ TUỆ:
Này các thầy Tỳ-kheo, người mà có trí tuệ sẽ không có tham đắm, thường quán sát lại mình, không để bị lầm lỗi, có thể được giải thoát trong giáo Pháp của ta. Nếu không có trí tuệ không phải là Đạo nhân, cũng không phải bạch y, không biết gọi là gì! Trí tuệ là thuyền chắc giúp vượt biển sinh tử, trí tuệ là đèn lớn phá tan tối vô minh, trí tuệ là thuốc thần trị lành mọi bệnh khổ, trí tuệ là búa bén đốn ngã cây phiền não. Cho nên các ông phải lắng nghe, khéo tư duy và thực hành giáo Pháp, để trí tuệ tăng trưởng, có được lợi ích lớn trên con đường giải thoát. Có trí tuệ soi chiếu tuy không có thiên nhãn vẫn là người thấy được rất rõ ràng sáng suốt. Đây gọi là trí tuệ.

8. KHÔNG HÝ LUẬN:
Này các thầy Tỳ-kheo, hý luận khiến tâm loạn, tuy là người xuất gia vẫn không thể thoát khỏi. Cho nên Tỳ-kheo phải buông bỏ gấp hý luận khiến loạn tâm của mình. Các ông muốn hưởng được niềm an vui tịch diệt thì phải khéo diệt trừ tai họa của hý luận. Đây là không hý luận.
PHẦN LƯU THÔNG:
1. SIÊNG TU:
Này các thầy Tỳ-kheo, hãy nhất tâm tu tập các công đức pháp lành, và tránh sự biếng nhác như tránh xa giặc thù. Tu tập như thế nào, được lợi ích ra sao, đã được đức Thế Tôn nói ra hết tất cả vì thương xót chúng sinh.  Điều còn lại chính là các ông phải tinh tấn thực hành lời ta dạy. Dù ở trong núi rừng, hay bên bờ ao vắng, hoặc ngồi dưới gốc cây, nơi vắng vẻ, tịnh thất…, các ông phải luôn nhớ Pháp mình đã nhận lãnh, đừng để cho quên mất. Thường khích lệ bản thân, luôn tinh tấn tu tập, không để chết vô ích, rồi hối hận về sau. Ta như vị lương y biết bệnh và biết thuốc, còn chịu uống hay không là tùy vào người bệnh, không phải lỗi lương y! Ta như người dẫn đường, dẫn người vào đường tốt; nghe mà không chịu đi, không phải lỗi người dẫn!

2. CHỨNG QUYẾT:
Đối với bốn Thánh đế: khổ, tập, diệt và đạo, các ông có gì nghi, hãy mau mau thưa hỏi, đừng để ở trong lòng, mà không cầu giải quyết. Bấy giờ đức Thế Tôn lặp lại đến ba lần, nhưng không có ai hỏi. Vì sao lại như vậy? Vì không ai nghi ngờ. Ngài A-nậu-lâu-đà lúc đó hiểu lòng chúng, nên bạch đức Phật rằng: “Kính bạch đức Thế Tôn, mặt trăng có thể nóng, mặt trời có thể lạnh, nhưng bốn Thánh đế này do đức Phật nói ra không sao sai khác được. Đức Phật nói khổ đế thực sự đó là khổ, không thể khiến thành vui; tập đế chính thực là nguyên nhân của khổ đế, không nguyên nhân nào khác. Nói chấm dứt đau khổ là chấm dứt nhân khổ. Do nhân khổ đã diệt, nên quả khổ cũng diệt. Đạo đế là con đường chấm dứt khổ đế này. Đây là đường chân chính, không có đường nào khác. Kính bạch đức Thế Tôn, những vị Tỳ-kheo này không có gì nghi ngờ đối với bốn Thánh đế.”
3. ĐOẠN NGHI:
Trình bày các nghi: Trong hội chúng lúc đó, ai chưa chứng Thánh quả, thấy đức Phật diệt độ đều xúc động buồn thương. Những ai mới thâm nhập nơi giáo nghĩa Phật Pháp, nghe lời Phật giảng xong, thảy đều được đắc độ. Như đêm thấy ánh sáng lóe ngang qua bầu trời, thấy Đạo cũng như vậy. Còn ai đã tu xong, vượt qua được biển khổ, chỉ nghĩ như thế này: “Đức Thế Tôn diệt độ, sao mà mau chóng quá!”
Dứt các nghi:Tuy A-nậu-lâu-đà đã thưa Thế Tôn rằng mọi người đều hiểu rõ ý nghĩa bốn Thánh đế, nhưng với lòng đại bi, Thế Tôn muốn mọi người được đạo tâm kiên cố, nên nói tiếp tục dặn dò: “Này các thầy Tỳ-kheo, đừng ôm lòng buồn thương. Dù ta có ở đời dài lâu đến một kiếp, cuối cùng cũng nhập diệt. Hội họp mà chẳng tan là điều không thể có. Như Lai đã làm đủ pháp tự lợi lợi tha. Nếu ta ở lâu hơn trong cõi thế gian này cũng không lợi ích gì. Những ai có thể độ, dù cõi trời cõi người, Như Lai đều đã độ; những ai chưa độ được, Như Lai đều gieo duyên được đắc độ về sau. Từ nay đến tương lai, nếu đệ tử của ta lần lượt hành Chánh Pháp, pháp thân của Như Lai sẽ thường trú bất diệt. 
Khuyên tu hành: Cho nên phải biết rằng, thế gian vốn vô thường, có họp phải có tan, đừng ôm lòng buồn khổ. Thế gian vốn như vậy, phải siêng tu tinh tấn, sớm cầu đạo giải thoát. Hãy dùng trí tuệ sáng trừ bóng tối si mê! 
Cuộc đời rất mong manh, không có gì chắc thực. Hôm nay ta tịch diệt như trừ được bệnh dữ. Thân này nên xả bỏ, vật gây bao tội ác, giả danh gọi là thân, chìm đắm mãi trong biển sinh già bệnh và chết. Xả bỏ được thân này như giết được giặc thù, người trí sao lại không sinh khởi lòng hoan hỷ?
LỜI DẶN LƯU THÔNG:
Này các thầy Tỳ-kheo, phải nên luôn nhất tâm, siêng cầu đạo giải thoát. Tất cả pháp thế gian hoặc động hay bất động, đều là tướng vô thường, không có gì an ổn. Các ông hãy dừng lại, không được nói gì thêm. Giờ khắc đã đến rồi, Như Lai sắp diệt độ. Đây là lời răn dạy cuối cùng ta để lại. 

Soạn Dịch: Thường Đăng; Đăng Quý

 

Tin khác